Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011

3. Khủng hoảng đảo Điếu Ngư năm 2010: Các ván cờ trong nước và cuộc xung đột ngoại giao

Cuộc khủng hoảng Điếu Ngư vào tháng 9 năm 2010 đã đánh vào mối quan hệ Trung – Nhật như một quả tên lửa. Một vấn đề bắt nguồn chỉ là một vụ va chạm giữa ngư dân và lực lượng tuần tra bờ biển đã trở thành sự đổ vỡ ngoại giao nghiêm trọng nhất trong nhiều năm qua. NCBĐ giới thiệu bài viết của PGS. Yves Tiberghien[1], Đại học British Columbia trong Series đặc biệt của tạp chí Harvard Asia Quarterly của Trường Đại học Havard với chủ đề "Tranh chấp biển- An ninh hàng hải tại Đông Á", (The Disputed Sea – Maritime Security in East Asia) tháng 12/2010.

 

Giới thiệu

Vào mùa thu năm 2010, Nhật Bản và Trung Quốc đã trải qua một trong những cuộc đụng độ căng thẳng nhất giữa hai nước kể từ sau chiến tranh thế giới II. Tranh chấp xảy ra đối quần đảo nhỏ và không có người ở, quần đảo Điếu Ngư (trong tiếng Nhật là Senkaku). Cuộc đụng độ đã bắt đầu vượt khỏi tầm kiểm soát và dần lan sang tất cả các khía cạnh trong các mối quan hệ ngoại giao và kinh tế giữa hai nước, gây ra tác động tiêu cực đến các hội nghị thượng đỉnh quốc tế, như Hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Việt Nam, G20 ở Seoul và Hội nghị thượng đỉnh APEC ở Yokohama. Xung đột đã xảy ra bất chấp nhu cầu cấp bách để đối phó với các vấn đề toàn cầu quan trọng nhất cũng như để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế đang kéo dài. Vấn đề này cũng đã kéo các cường quốc khác  như Mỹ, Nga, và các nước ASEAN vào vòng xoáy của nó.
Cuộc đối đầu đạt đến đỉnh điểm vào ngày 24 tháng 9. Đến thời điểm đó, vụ tranh chấp về việc bắt giữ duy nhất một thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Quốc đã phát triển thành một cuộc xung đột ngoại giao toàn diện. Tất cả các cuộc gặp gỡ song phương chính thức đều bị hủy bỏ. Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh kinh tế đang ngày càng mạnh của mình để đe dọa áp dụng biện pháp cấm vận xuất khẩu những kim loại hiếm thiết yếu cho nền công nghiệp của Nhật Bản. Các nhà lãnh đạo dư luận của Trung Quốc cũng đã thúc giục chính phủ mua vào đồng Yên để tăng thêm áp lực. Các chuyến du lịch chính thức với số lượng lớn của các công ty Trung Quốc đến Nhật Bản cũng bị hủy bỏ, và Trung Quốc cũng hủy chuyến thăm của 1000 trẻ em Nhật Bản đến Expo Thượng Hải.
Bước ngoặt cuối cùng đối với Nhật Bản đến khi vào ngày 23 tháng 9, bốn doanh nhân Nhật Bản đã bi bắt giữ do nghi ngờ làm gián điệp. Nhật Bản cuối cùng đã nhượng bộ và thả thuyền trưởng Chiêm Kỳ Hùng vào ngày 24 tháng 9. Lệnh thả đã được Phòng Công tố quận Naha đưa ra, chủ yếu vì những lý do về ngoại giao (và đồng thời cũng do vụ va chạm không phải do Thuyền trưởng Chiêm suy tính trước).
Điều đáng ngạc nhiên là, kể cả sau khi lệnh thả được đưa ra, tình trạng căng thẳng vẫn tiếp tục diễn ra giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Ngoại trưởng Maehara cho rằng phản ứng của Trung Quốc là “thái quá” và đã lôi kéo sự ủng hộ đối với trường hợp của Nhật Bản trong các tuần tiếp theo. Trung Quốc đã đáp lại bằng một loạt các biện pháp và hành động, trong đó đáng chú ý nhất là các cuộc họp ngoại giao cấp cao vẫn bị đình chỉ. Cũng có thể Trung Quốc đã thành công trong việc phối hợp hành động với Nga nhằm mục đích chọc giận Nhật Bản hơn nữa: vào ngày 1 tháng 11, Tổng thống Medvedev đã thực hiện một chuyến thăm lịch sử đến quần đảo Nam Kuril mà (Nhật Bản gọi là Vùng lãnh thổ phương Bắc). Đây là lần đầu tiên một lãnh đạo của Liên Xô hay Nga đến thăm khu vực này.
Mặc dù vậy, với mức độ căng thẳng của nó, cuộc khủng hoảng này xảy đến như một cơn bão bất ngờ giữa trời yên biển lặng, vào thời điểm mà hi vọng đang được nhen nhóm lại về một sự ổn định và hội nhập ở khu vực Đông Á. Có vẻ như mối quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản đã có những bước phát triển đáng kể và ý kiến dư luận rất khả quan. Điều này đã làm cho cuộc khủng hoảng vào tháng 9 năm 2010 càng trở nên khó hiểu.
Quả thật, với chiến thắng mang tính bước ngoặt của Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) trong cuộc tổng tuyển cử vào ngày 30 tháng 8 năm 2009, mối quan hệ Trung –Nhật, vốn đang được hàn gắn kể từ thời của Thủ tướng Yasuo Fukuda từ năm 2007 đến 2008, đã có bước phát triển theo chiều hướng tích cực hơn. Thủ tướng mới đắc cử Yukio Hatoyama đã kêu gọi một sự tái cân bằng giữa ngoại giao và an ninh quân sự của Nhật Bản, thoát ra khỏi việc chỉ tập trung vào Mỹ. Ông đã đưa ra những lập luận cho việc đẩy mạnh việc hội nhập Đông Á và can dự sâu hơn với cả Trung Quốc và Hàn Quốc. Trong bài phỏng vấn thường được trích dẫn của ông trên tờ Thời báo New York vào ngày 27 tháng 8 năm 2009, Hatoyama thậm chí còn kêu gọi thực hiện một đồng tiền chung trong vòng một thập kỷ nữa. Những câu chữ được cân nhắc kỹ lưỡng của cựu thủ tướng Nhật Bản chỉ một năm trước vụ đụng độ rất đáng được nhắc lại một lần nữa:
Tôi cũng cảm thấy rằng do thất bại trong cuộc chiến tranh Iraq và cuộc khủng hoảng kinh tế, kỷ nguyên của chủ nghĩa toàn cầu do Mỹ lãnh đạo đang đi đến hồi kết và rằng chúng ta đang tiến tới kỷ nguyên của chủ nghĩa đa cực. […]
Những diễn biến gần đây cho thấy một cách rõ ràng rằng Trung Quốc sẽ trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về kinh tế trong khi cũng sẽ vẫn tiếp tục nâng cao sức mạnh quân sự của mình. Quy mô của nền kinh tế Trung Quốc sẽ vượt qua quy mô của Nhật Bản trong một tương lai không xa. […] “Trong khi chúng ta đang tìm kiếm xây dựng những mô hình hợp tác quốc tế mới, chúng ta cũng cần phải vượt qua chủ nghĩa dân tộc cực đoan và tiến theo con đường hợp tác kinh tế và an ninh dựa trên chế định […]
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải mong muốn hướng đến một sự hội nhập về tiền tệ trong khu vực như một sự tiếp nối tự nhiên của sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng do Nhật Bản khởi đầu, tiếp nối là Hàn Quốc, Đài Loan, Hongkong và sau đó là các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc. Chúng ta không được bỏ lỡ một nỗ lực nào để xây dựng các khuôn khổ an ninh thường trực để củng cố sự hội nhập tiền tệ này. Việc xây dựng một đồng tiền chung châu Á sẽ có thể phải mất hơn 10 năm. Để một đồng tiền chung duy nhất như vậy có thể đem lại sự hội nhập về chính trị chắc chắn sẽ mất thời gian dài hơn nữa […]
Những vấn đề do việc quân sự hóa ngày càng tăng và các tranh chấp về lãnh thổ không thể  được giải quyết bằng các vòng đàm phán song phương giữa, ví dụ như, Nhật Bản và Hàn Quốc, hay Nhật Bản và Trung Quốc. Các vấn đề này được đưa ra thảo luận song phương nhiều bao nhiêu thì càng có nguy cơ thổi bùng ngọn lửa xúc cảm và gia tăng chủ nghĩa dân tộc bấy nhiêu.
Do đó, tôi xin đề xuất, có vẻ như hơi nghịch lý, rằng những vấn đề đang gây trở ngại cho việc hội nhập khu vực chỉ có thể được giải quyết dứt điểm bằng việc hướng tới sự hội nhập sâu hơn. Kinh nghiệm của EU cho chúng ta thấy việc hội nhập khu vực có thể làm giảm các tranh chấp lãnh thổ như thế nào.[2]
Hatoyama tiếp tục thực hiện tầm mình của mình với sự kêu gọi chắc chắn về một “Cộng đồng Đông Á”. Ông tuyên bố ý tưởng này tại một số hội nghị thượng đỉnh Đông Á, cũng như một số cuộc gặp thân mật với Trung Quốc và Hàn Quốc (kể cả hội nghị thượng đỉnh ba bên thân mật hơn bình thường ở Bắc Kinh vào tháng 10 năm 2009). Trả lời phỏng vấn về hội nghị thượng đỉnh ba bên trong bức thư hàng tuần của mình vào ngày 16 tháng 10, Hatoyama đã viết:
Trong bài phát biểu khai mạc, tôi đã khẳng định rằng một chính phủ Nhật Bản mới sẽ tập trung sự chú ý của mình vào Trung Quốc và rằng không còn nghi ngờ gì nữa về sự hợp tác ngày càng lớn mạnh giữa Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Chúng tôi đã bàn luận một số chủ đề và, như một ví dụ rõ ràng nhất về việc trao đổi thanh niên, tôi đã đề xuất rằng việc cho phép trao đổi tín chỉ giữa các trường đại học sẽ giúp xóa bỏ rào cản về mặt tâm lý đang chia cắt thanh niên của ba nước. Cuối hội nghị, chúng tôi đã đưa ra tuyên bố chung ủng hộ việc tăng cường mối quan hệ cùng hợp tác […]
Trong buổi nói chuyện thượng đỉnh song phương với Thủ tướng Ôn, tôi đã đề xuất rằng chúng ta nên biến biển Hoa Đông thành vùng biển của Tình Anh em, như tôi cũng đã nói với Chủ tịch Hồ trước đây.[3]
Đáng lưu ý nhất, vào giữa tháng 12 năm 2009, Chủ tịch đảng Dân chủ Nhật Bản Ichiro Ozawa đã dẫn đầu một đoàn đại biểu gồm hơn 140 thành viên của nghị viện đến thăm Bắc Kinh. Chủ tịch nước Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã đích thân bắt tay và chụp ảnh lưu niệm với từng nghị sĩ một. Vào tháng 2 năm 2010, Hatoyama vẫn còn xem xét tổ chức một hội nghị thượng đỉnh khác ở Trung Quốc vào mùa xuân như một hành động cân bằng mềm (hedging) đối với Mỹ trong những căng thẳng về các căn cứ quân sự ở Okinawa.[4]
Hơn thế nữa, vào tháng 6 năm 2010, hội nghị thượng đỉnh ba nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã diễn ra trong không khí vẫn rất thân mật.[5] Như báo Nikkei đã trích dẫn, Trung Quốc đã phát biểu về Hatoyama (người vào lúc đó đang từ chức thủ tướng) như sau:
Hôm thứ Tư, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Mã Triều Húc cho biết: “Vào thời điểm tại vị, ông Hatoyama đã ưu tiên mối quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản và chúng tôi hoan nghênh sự nỗ lực của ông trong việc phát triển các mối quan hệ tốt đẹp và vững chắc.”[6]
Trong khi Hàn Quốc rất háo hức trước sự thay đổi lãnh đạo của Nhật Bản, Trung Quốc rõ ràng đón nhận việc này với một thái độ e dè và nghi ngại hơn. Giới lãnh đạo Trung Quốc chờ đợi những bước phát triển thực tế với Nhật Bản trong các vấn đề quan trọng: Đài Loan, biển Hoa Đông, kí ức lịch sử và chủ quyền của Trung Quốc. Nhưng khi Hatoyama và Ozawa nhận chức thủ tướng và Chủ tịch Đảng Dân chủ Nhật Bản vào đầu tháng 6 năm 2010, tình hình đã lại trở nên khó khăn hơn.
Sau khi xem xét những vấn đề nảy sinh trước các sự kiện xảy ra vào tháng 9 năm 2010, hai câu hỏi cơ bản nảy sinh. Làm thế nào mà mối quan hệ đã được cải thiện gần đây xung quanh một lộ trình chung đối với việc hội nhập Đông Á có thể đổ vỡ một cách nhanh chóng như thế? Làm thế nào mà hai quốc gia có nền thương mại phụ thuộc vào nhau có thể xử sự theo cách “được ăn cả ngã về không” về một vấn đề hầu như không có giá trị gì về kinh tế hay chiến lược như vậy?
Trong bài viết này, tôi đưa ra ba lập luận đồng tâm. Các lập luận này đi từ các nguyên nhân trực tiếp đến điều kiện thúc đẩy cơ bản hơn. Đầu tiên, tôi lập luận rằng cuộc khủng hoảng và việc leo thang của nó là kết quả của những quyết định được đưa bởi các nhà lãnh đạo hoạt động trong một ván cờ chính trị trong nước. Do thiếu vắng các cơ chế để giảm nhẹ căng thẳng, các quyết định này đã gây ra những hậu quả tiêu cực không lường trước được.
Những hậu quả không lường trước được đã xảy ra trên hai cấp độ. Mặc dù một số dữ kiện về những gì đã xảy ra trên vùng biển quanh các đảo do Nhật Bản quản lý vẫn còn mập mờ và gây tranh cãi, những thông tin có được là rõ ràng: vụ đụng độ này không phải do Trung Quốc hay Nhật Bản sắp đặt nên. Đó là kết quả của sự tiếp xúc của người dân, cụ thể là của vị thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Quốc liều lĩnh trên đường đi đánh cá và của lực lượng tuần tra bờ biển Nhật Bản đang cố để áp đặt sự kiểm soát của mình. Trong nỗ lực để chạy trốn, tàu Trung Quốc đã đâm vào tàu của Nhật Bản. Thuyền trưởng của tàu đánh cá đã bị bắt giữ.
Ở cấp độ chính trị, Nhật Bản là bên đưa ra bước đi đầu tiên. Đây là một ví dụ điển hình cho tinh thần chính trị của Bộ trưởng Lực lượng tuần duyên Nhật Bản lúc bấy giờ là Seiji Maehara. Maehara đã đưa ra các quyết định quan trọng ban đầu, từ đó đã phớt lờ những tiền lệ lịch sử và tính toán nhầm phản ứng có thể có của Trung Quốc. Quan trọng không kém là một chương trình nghị sự trong nước quá dày đặc: do cuộc chạy đua tranh vị trí lãnh đạo của Nhật Bản vào ngày 14 tháng 9, văn phòng Thủ tướng đã quá bận rộn để có thể quan tâm đến vấn đề này.
Về phía Trung Quốc, tôi cho rằng thái độ của Trung Quốc chủ yếu là kết quả của những áp lực từ dưới lên do công luận gây ra. Trong hoàn cảnh này, chính phủ Trung Quốc buộc phải chuyển từ chính sách ngoại giao thực dụng sang những hành động mạnh mẽ hơn. Sự kiện đảo Điếu Ngư đã gây ra những phản ứng không thống nhất trong dư luận trung Quốc (tương tự như dư luận Nhật Bản) bởi vì Trung Quốc đã bị Nhật Bản chiếm đóng trong cuộc chiến tranh Trung – Nhật (1894-1895). Do đó, đối với tất cả người dân Trung Quốc – không chỉ là Trung Quốc đại lục mà cả Hồng Kông, Đài Loan, và những người dân Trung Quốc rải rác ở những nơi khác, quần đảo Điếu Ngư gắn liền với sự khởi nguồn của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản ở Trung Quốc.
Thứ hai, tôi cho rằng cuộc khủng hoảng đã leo thang đến mức độ cao nhất từng thấy cho đến ngày nay là do sự thay đổi cơ bản về sự cân bằng sức mạnh kinh tế và chính trị giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Sự thay đổi này đã tăng lên mạnh hơn vào thập niên 2000. Cuộc khủng hoảng năm 2010 là thời điểm mà sự cân bằng về kinh tế và ngoại giao của Trung Quốc so với Nhật Bản đã trở nên rõ ràng hơn. Nhật Bản đã thực hiện các hành động chưa từng có tiền lệ đối với ngư dân Trung Quốc và quan trọng hơn là, lần đầu tiên, Trung Quốc cảm thấy mình có thể phá vỡ ý chí của Nhật Bản thông qua vụ bắt giữ ngư dân của mình. Và Trung Quốc đã thực hiện điều đó.
Thứ ba, và quan trọng hơn cả, tôi cho rằng việc căng thẳng leo thang cho thấy sự yếu kém về mặt thể chế của chủ nghĩa khu vực Đông Á. Việc một sự kiện nhỏ đến như vậy có thể gây ra những hành động kịch tính như thế càng khẳng định tầm quan trọng thiết yếu của việc thể chế hóa các mối quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Điều này cần được tiến hành trong khuôn khổ ngoại giao rộng lớn hơn ở Đông Bắc Á. Chính để tránh những cuộc khủng hoảng như thế này giữa Pháp và Đức mà Jean Monnet đã khởi xướng quá trình hội nhập châu Âu vào năm 1950.
Phần còn lại của bài viết này được thực hiện qua năm bước. Phần 1 đưa ra một cái nhìn tổng quan ngắn gọn về lịch sử. Phần 2 xem xét lại các những giai đoạn quan trọng của cuộc khủng hoảng. Phần 3 khảo sát những chi phí và hậu quả của cuộc khủng hoảng đối với Nhật Bản, Trung Quốc và khu vực Đông Bắc Á. Phần 4 phân tích những nguyên nhân chính trị trực tiếp ở Nhật Bản và Trung Quốc. Phần 5 tập trung sâu hơn vào những nguyên nhân về thể chế: sự cân bằng về quyền lực đang thay đổi và sự hội nhập khu vực còn yếu ở Đông Bắc Á. Phần kết luận đưa ra một số ý kiến về phương hướng trong tương lai.

Một số quan điểm về lịch sử và địa lý

Quần đảo Điếu Ngư không phải là một ứng cử viên cho sự cạnh tranh của nước lớn và cho chính trị cấp cao. Đảo này nằm 170km về phía đông bắc của Đài Loan, cách Trung Quốc đại lục khoảng 370km và 410km từ Okinawa (Lee 2010). Vùng đất gần nhất là đảo Ishikagi của Nhật Bản vẫn nằm cách khoảng 170km. Về mặt địa lý, quần đảo này nằm ở thềm lục địa của Trung Quốc và.được phân cách khỏi quần đảo Okinawa bởi Vùng lõm Okinawa (với độ sâu trung bình khoảng 2716 mét).
Quần đảo này lần đầu tiên xuất hiện trên các bản đồ của Trung Quốc vào khoảng năm 1400 mang các tên gọi của Trung Quốc. Các đảo này được ghi nhận trong một số bản ghi chép của hải quân. Các đảo này được Trung Quốc xem như một phần của không gian biển Trung Quốc. Các đảo này cũng đóng vai trò là các điểm gặp gỡ giữa các đại diện ngoại giao trung Quốc và Ryuku.[7] Tuy nhiên, các cuộc tiếp xúc đều bị hạn chế. Vào năm 1879, với sự gia tăng quyền lực sau thời đại Minh Trị, Nhật Bản đã tiến tới gần hơn vùng nay khi sáp nhập Okinawa và các đảo có liên quan (vương quốc Ryukyu). Vào năm 1885, sau cuộc khảo sát tuyên bố quần đảo này không có người ở, Nhật Bản tiến tới nắm quyền kiểm soát quần đảo Điếu Ngư. Tuy nhiên, Nhật Bản đã vấp phải sự phản đối của Trung Quốc và đã phải rút lại yêu sách của mình. Sau những nỗ lực mới vào năm 1890 và 1893, Nhật Bản cuối cùng đã đưa ra yêu sách đối với các đảo nhỏ vào tháng 1 năm 1895 thông qua một quyết định đơn phương của Chính phủ. Hành động này đã diễn ra trong khi Chiến tranh Trung – Nhật đang diễn ra, vào thời điểm mà Nhật Bản đang thắng đậm. Các cuộc đàm phán ký kết hiệp định Shimonoseki đánh dấu chiến tranh chấm dứt đã diễn ra vào sau đó vào tháng 3 và tháng 4 năm 1895. Hiệp ước này đã dẫn đến sự chuyển giao Đài Loan và đảo Pescadores cho Nhật Bản.  Mãi đến năm 1900, Nhật mới đưa ra cái tên “Senkaku”. Cái tên này đã xuất hiện trong cuộc khảo sát được thực hiện bởi Trường Cao đẳng Okinawa vào thời điểm đó (Wada 2010).
Sự kiểm soát của Nhật Bản kéo dài đến năm 1945. Vào thời điểm đó, Đài Loan và đảo Pescadores được trao trả cho Trung Quóc (dưới sự quản lý của Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch).  Okinawa và quần đảo Điếu Ngư được giao cho quân đội Mỹ kiểm soát cho đến năm 1972. Tưởng Giới Thạch đã không yêu sách Điếu Ngư vào thời điểm đó; lúc đầu ông bị cuốn vào cuộc nội chiến với Trung Quốc và sau đó, ông quan tâm tới sinh tồn chính trị của mình ở Đài Loan.  Ở giai đoạn sau, Tưởng cần sự bảo hộ của Mỹ, do đó một cuộc xung đột với Mỹ về đảo Điếu Ngư không được đặt ra. Cả Đài Loan và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bắt đầu tích cực hơn trong việc yêu sách đảo Điếu Ngư năm 1971. Vào năm đó, Okinawa và đảo Điếu Ngư đã chính thức được trao trả cho Nhật Bản (việc trao trả bắt đầu có hiệu lực vào năm 1972).
Hành động được thực hiện bởi chính phủ Mỹ và Nhật Bản. Tuy nhiên, các cuộc phỏng vấn với ngư dân Phúc Kiến cho thấy ngư dân Trung Quốc vẫn đánh cá ở những vùng nước thuộc sự chiếm đóng của Mỹ và nằm dưới sự kiểm soát của Nhật Bản. Những ngư dân này đã đánh bắt cá ở đó qua nhiều thế hệ, và chủ quyền chính trị không liên quan đến họ.[8]
Tóm lại, có một khoảng cách giữa yêu sách pháp lý của Nhật Bản và yêu cầu của Trung Quốc về sự công bằng lịch sử. Yêu sách của Nhật Bản là mạnh theo luật quốc tế, do không có dân cư sinh sống ổn định trước năm 1895 và khoảng thời gian chiếm cứ hữu hiệu từ năm 1895 đến 1945 và từ 1972 cho đến nay. Tuy nhiên, tất cả các quyết định quan trọng được đưa ra trong và sau các cuộc chiến tranh. Trung Quốc chưa bao giờ thừa nhận những kết quả này là công bằng.
Đối với Trung Quốc, tranh chấp về đảo Điếu Ngư có liên quan đến các kí ức về cuộc chiến Trung – Nhât. Từ đó, tranh chấp này gắn liền với lịch sử của chủ nghĩa đế quốc và sự chiếm đóng của Nhật Bản. Đây là lý do vì sao các đảo nhỏ này lại có sức mạnh để thúc giục và đoàn kết người dân Trung Quốc xuyên biên giới, không chỉ ở Trung Quốc đại lục. Một điều ngộ nghĩnh là một trong những nhà hàng dim sum và quán trà nổi tiêng nhất của Hồng Kông ở thành phố Richmond, British Columbia, Canada có tên gọi là “Điếu Ngư Đài”.
PGS. Yves Tiberghien, Đại học British Columbia
Bản gốc tiếng Anh "The Diaoyu Crisis of 2010: Domestic Games and Diplomatic Conflict". Bài viết được in trong Seri đặc biệt của tạp chí Harvard Asia Quarterly với chủ đề “The Disputed Sea – Maritime Security in East Asia” tháng 12/2010



[1] Yves Tiberghien là Phó Giáo sư tại Khoa Khoa học Chính trị, Trường Đại học British Columbia, Phó Giáo sư thỉnh giảng tại Trường Đại học Chengchi Quốc gia, Đài Loan, và là một học giả tại Học viện Havard
[2] Yukio Hatoyama, “A New Path for Japan,” The New York Times, ngày 27/8/2009.
[3] Yukio Hatoyama, Hatoyama Cabinet Email Magazine 2, ngày 16/10/2009.
[4] “With US Trip In Limbo, Hatoyama Looks To Visit China Again,” The Nikkei, ngày 27/2/2010.
[5]“China, S Korea Express Regret over Hatoyama’s Departure,” The Nikkei, ngày 3/6/2010.
[6] Như trên.
[7] Wada, Haruki. Resolving the China-Japan Conflict over the Senkaku/Diaoyu Islands. The Asia-Pacific Journal 43-3-10, 2010;Serita, Kentaro. Japan’s Territory (Nihon No Ryōdo). Tokyo: Chūō Kōron Sha, 2002.
[8] “Shouwang diaoyudao de zhongguo yumin: zhe liang nian riben xiaozhang qilai [Chinese fishermen who protect Diaoyu Islands take a stand: Over Past Two Years, Japan Has Become Overbearing],” ifeng.com, ngày 1/10/2010, truy cập ngày 1/10/2010, http://news.ifeng.com/history/zhongguoxiandaishi/detail_2010_10/01/2688635_0.shtml

Phần 2
Cuộc khủng hoảng đảo Điếu Ngư đã leo thang dẫn đến những căng thẳng  mà cả Nhật Bản và Trung Quốc đều không thể lường trước sự việc. Nhật Bản và Trung Quốc là 2 quốc gia quan trọng hình thành nên xương sống cho sự ổn định khu vực, do đó cần thiết có một cơ chế, cách tiếp cận nhằm hạn chế những xung đột tương tự trong tương lai.
Chuỗi sự kiện: từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2010
Cuộc khủng hoảng bắt đầu vào ngày 7 tháng 9. Chuỗi sự kiện diễn ra sau đó được định hình bởi các hành động đáng ngạc nhiên và các hậu quả không định trước. Các sự kiện (cho đến nay) có thể được chia ra thành bảy giai đoạn:
Giai đoạn 1: Cú sốc đầu tiên và việc bắt giữ thuyền trưởng Chiêm
Các sự kiện đã diễn ra vào ngày 7 tháng 9 và các quyết định do Tuần tra Biên phòng Nhật Bản vẫn còn mập mờ. Tuy nhiên, chắp nối các nguồn thông tin từ phía Nhật Bản và Trung Quốc, câu chuyện đã diễn ra như sau. Nguồn gốc chính xác của toàn bộ của khủng hoảng chỉ liên quan đến cá. Rõ ràng, các đàn cá quan trọng đã quyết định di trú đến vùng nước của quần đảo Điếu Ngư vào năm 2010. Các đàn cá này đã không đến các vùng nước này trong các năm gần đây, do đó ngư dân Phúc Kiến đã tránh vùng nước này. Tuy nhiên, mùa hè năm nay, một số lượng lớn cá một lần nữa đã được tìm thấy ở đây. Giữa quần đảo Điếu Ngư, có một vùng gọi là “đường đảo Rắn” rộng 1000m. Theo các ngư dân, các đặc tính địa lý của khu vực này biến nó thành một nơi tránh bão và sóng rất tốt.  Đây cũng là một khu vực nhiều cá có giá trị  như cá chuồn và cá bò. Điều này đã biến khu vực này thành một địa điểm rất hấp dẫn đối với ngư dân từ Trung Quốc đại lục và kể cả từ Đài Loan.[1]
Những ngư dân cho hay, cho đến một vài năm trước đây, Đội tuần tra Bờ Biển Nhật Bản vẫn cho phép tàu của Trung Quốc đánh cá trong khu vực. Lúc đầu chỉ có ngư dân Đài Loan là bị đuổi đi. Nhưng ngư dân Phúc Kiến cũng bóng gió rằng Đội Tuần tra Bờ biển Nhật Bản đã quyết định tại một thời điểm nào đó vào đầu tháng 9 phải thực hiện các hành động mạnh mẽ hơn để ngăn chặn dòng tàu thuyền Trung Quốc đổ vào. Các tàu tuần tra bao vây các tàu nhằm thu giữ cá và dụng cụ của họ. Xét những điều kiện kinh tế ngặt nghèo cho hoạt động của ngư dân ở Phúc Kiến , việc mất đi lượng cá bắt được và tệ hơn, là mất dụng cụ đánh cá, đồng nghĩa với việc phá sản và mất nguồn sống. Đối với các thuyền trưởng như Chiêm Kỳ Hùng, những nguy cơ rủi ro là rất cao.
Vào ngày 7 tháng 9, đoạn phim bây giờ đã xuất hiện ở khắp nơi về vụ đụng độ giữa một tàu đánh cá nhỏ màu xanh và đội Tuần tra Bờ biển Nhật Bản cho thấy thuyền trưởng Chiêm đã đâm vào tàu tuần tra hai lần. Điều không thấy rõ trong đoạn phim, nhưng rất có thể đã xảy ra, là ông ta làm vậy nhằm cố gắng trốn thoát khỏi vòng vây của tàu tuần tra và cố giữ lại dụng cụ và đống cá của mình. Trong đoạn phim cũng không chiếu cảnh ông này sau đó bị bắt giữ.
Mặc dù Thuyền trưởng Chiêm đã phản ứng rất vội vàng và liều lĩnh, rất dễ để có thể giải thích các hành động của ông ta. Ông ta tìm đánh bắt cá ở những nơi có cá, như chính ông cũng như hàng thế hệ các ngư dân khác trong làng của ông đã từng đánh bắt như thế trong quá khứ ở gần đảo Điếu Ngư. Ông ta sau đó đã bất chấp tất cả để trốn thoát khỏi vòng vây của Lực lượng Tuần tra Bờ biển và để cứu lấy nguồn sống của mình. Điều khó hiểu hơn là vì sao Lực lượng tuần tra Bờ biển Nhật Bản là thay đổi quy trình hoạt động chuẩn mực của mình để cắt đứt đường thoát chạy của một tàu đánh cá như thế này.
Bước tiếp theo là bước quan trọng nhất: quyết định bắt giữ thuyền trưởng Chiêm. Trong các vụ việc khác trong quá khứ, thường kém nghiêm trọng hơn, thuyền trưởng đều không bị bắt giữ. Tạp chí Aera của Nhật tiết lộ rằng Nhật Bản và Trung Quốc đã kí một thỏa thuận bí mật vào năm 2004 thống nhất thực hiện chính điều này: Nhật Bản cam kết sẽ tránh không thực hiện bất kỳ việc bắt giữ nào, biết rất rõ rằng việc bắt giữ này có thể  châm ngòi một làn sóng dư luận, bù lại, Trung Quốc đồng ý sẽ ngăn không cho những nhà hoạt động xã hội đi thuyền ra đảo. Về bản chất, đây là một nỗ lực mang tính thực dụng để tách biệt vấn đề đánh cá khỏi vấn đề chủ quyền.[2] Thông tin này bị rò rỉ đã gây ra những lời chất vấn đầy giận dữ từ phía Đài Loan và Hồng Kông (không được tham gia vào thỏa thuận).[3]
Các nguồn tin Nhật Bản cho hay quyết định bắt giữ thuyền trưởng Chiêm không phải do Lực lượng Tuần tra Bờ biển được ra mà thực chẩt là do Bộ trưởng Lực lượng tuần duyên Seiiji Maehara, với sự ủng hộ của Ngoại trưởng Okada và sự đồng thuận ngầm của Văn phòng Thủ tướng. Theo thông tin của Asahi Shinbun:
Ngay sau khi tàu đánh cá đâm phải tàu của Đội tuần tra Bờ biển Nhật Bản vào ngày 7 tháng 9, Maehara đã gọi Chỉ huy Đội Tuần tra Suzuki Hisayasu và nói với ông này, “Thuyền thưởng Chiêm của tàu đánh cá Trung Quốc phải bị bắt giữ.” […] Maehara từ chối không chịu xuống nước. Ông nói với các thân cận của mình: “Văn phòng thủ tướng rất lưỡng lự cho nên tôi phải đưa ra quyết định bắt giữ thuyền trưởng Chiêm. Việc giải quyết vấn đề này không mắc phải sai sót gì cả.”[4]
Và vì thế, bánh xe của cỗ máy khủng hoảng đã bắt đầu được khởi động. Con tàu lúc đầu cũng bị tịch thu cùng thủy thủ đoàn. Nhưng, trừ thuyền trưởng Chiêm, thủy thủ đoàn đã được thả ra sau một vài ngày. Thuyền trưởng Chiêm được chuyển đến Phòng công tố địa phương ở Naha (Okinawa) và xét xử bởi tòa án trong nước của Nhật Bản. Các cáo buộc chống lại thuyền trưởng là ngăn cản người thi hành công vụ và đánh cá bất hợp pháp.
Trung Quốc nhanh chóng phản đối. Đại sứ Nhật Bản bị triệu tập nhiều lần chỉ trong một vài ngày, kể cả giữa đêm bởi Ủy viên Quốc vụ Đới Bỉnh Quốc thúc giục việc thả thủy thủ đoàn và tàu. Vào ngày 10 tháng 9, tờ báo tiếng Anh chính thức của Trung Quốc China Daily đã đăng tài một bài viết với lời lẽ rất mạnh mẽ có tên “Hành động của Nhật Bản tại Điếu Ngư làm dấy lên lo ngại.” Bài báo viết:
Quần đảo Điếu Ngư đã là một phần của lãnh thổ Trung Quốc từ thời xa xưa, và Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo này. Đây không chỉ là quan điểm của chính phủ Trung Quốc mà cũng là kết luận của nhà sử học Nhật Bản Kiyoshi Inoue. […] Nhật Bản đã xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc khi tàu tuần tra của Nhật Bản chặn và kiểm tra tàu đánh cá của Trung Quốc và bắt giữ thuyền trưởng của tàu này. Nhật Bản nên biết rằng nước này sẽ đặt ra một tiền lệ không tốt nếu buộc tội thuyền trưởng của tàu Trung Quốc dựa trên luật của Nhật Bản. Trung Quốc cũng sẽ tăng cường tuần tra tại đảo Điếu Ngư để bảo vệ ngư dân Trung Quốc và Trung Quốc sẽ không bao giờ nhân nhượng chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình.[5]
Tuy nhiên những phản đối ban đầu chỉ được tiến hành qua con đường ngoại giao. Hiệu ứng quả cầu tuyết đã không xảy ra. Nhật Bản tin rằng vấn đề này có thể vẫn được giữ trong tầm kiểm soát.
Giai đoạn 2: Leo thang và căng thẳng
Cuộc khủng hoảng đã đạt đến đỉnh điểm khi Nhật Bản đưa ra hai quyết định quan trọng vào ngày 17 tháng 9 và ngày 19 tháng 9. Sau chiến thắng của chủ tịch đương nhiệm Naoto Kan đối với đối thủ Ichiro Ozawa trong cuộc đua giành chức lãnh đạo Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) vào ngày 14 tháng 10, Maehara được thăng chức lên nắm vị trí Ngoại trưởng vào ngày 17 tháng 10. Việc bổ nhiệm này hoàn toàn là vấn đề nội bộ, vì Maehara đã ủng hộ Kan trong cuộc tái tranh cử và Kan cần sự ủng hộ của một bộ phận đảng nằm dưới sự kiểm soát của Maehara. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, điều này lại được xem như một phần thưởng cho các hành động chống lại Trung Quốc và cho việc bắt giữ thuyền trưởng Chiêm. Thông tin về việc bổ nhiệm này được Trung Quốc đón nhận một cách rất tiêu cực.
Sau đó vào ngày 19 tháng 10, công tố viên Naha đã quyết định kéo dài thời gian tạm giữ thuyền trưởng Chiêm thêm mười ngày nữa để tiếp tục điều tra. Đây là một thủ tục mang tính tập quán ở Nhật Bản, tuy nhiên do phía Trung Quốc đã trông đợi rằng sau thời hạn mười ngày ông thuyền trưởng sẽ được thả, quyết định này càng làm cho các mối quan hệ xấu hơn.
Tại thời điểm này, Trung Quốc đã tiến hành một chiến dịch toàn diện chống lại Nhật Bản. Trung Quốc hủy bỏ mọi cuộc họp thượng đỉnh cấp cao. Nước này cũng hủy lời mời 10.000 thiếu niên Nhật Bản đến thăm Triển lãm Thượng Hải. Trung Quốc cũng bắt đầu tiến hành cấm vận trên thực tế đối với việc xuất khẩu các kim loại hiếm vào ngày 23 tháng 9. Hành động quyết liệt nhất được thực hiện vào ngày 20 tháng 9, khi bốn nhân viên Nhật Bản làm việc trong một nhà máy hóa chất của Nhật bị bắt giữ ở Trung Quốc trong một động thái trả đũa rất hiển nhiên của nước này. Vào ngày 21 tháng 9, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã đưa ra một bài phát biểu rất cứng rắn ở New York trong đó ông đã đe dọa rằng Nhật Bản có thể sẽ phải chịu những hậu quả rất nghiêm trọng. Nhật Bản cố gắng một cách tuyệt vọng để nói chuyện với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, nhưng tất cả các đường liên lạc trực tiếp đều bị cắt đứt. Thái độ phản ứng của Trung Quốc đã ảnh hưởng đến mối quan hệ Trung – Nhật trên mọi lĩnh vực.
Giai đoạn 3 – Thuyền trưởng Chiêm được thả
Vào ngày 24 tháng 9, dưới áp lực của Trung Quốc, Nhật Bản đã bắt đầu phải nhân nhượng. Về phía chính thức, Công tố viên Naha đã đưa ra một quyết định hết sức bất thường là quyết định thả thuyền trưởng Chiêm trước khi thời hạn giam giữ của ông này kết thúc. Ông tuyên bố công khai rằng việc thả này liên quan đến các khía cạnh về quốc tế. Về mặt không chính thức, các báo cáo sau đó tiết lộ rằng văn phòng Thủ tướng đã tham gia vào việc thuyết phục công tố viên phải thực hiện điều này và đã có nhiều cuộc điện thoại đầy giận dữ. Các nhân viên Bộ Ngoại giao cũng đã đến thăm riêng công tố viên một vài lần.
Các đảng đối lập đã phản đối thủ tướng, ngoại trưởng (Maehara) và Chủ tịch đảng DPJ (Okada) vì đã can thiệp chính trị vào hệ thống tư pháp và vì đã tỏ ra hèn nhát trước  Trung Quốc. Cái giá về mặt chính trị của động thái này nhanh chóng trở nên rất rõ ràng.
Điều thú vị là giữa Kan và Tổng thống Mỹ Obama đã có một cuộc gặp gỡ ở New York ngay trước khi thuyền trưởng Chiêm được thả. Không ai biết nội dung của cuộc gặp gỡ là gì, nhưng có thể Mỹ đã thuyết phục Kan về những lợi ích của việc xoa dịu cuộc khủng hoảng với Trung Quốc.
Giai đoạn 4: Khủng hoảng tiếp tục và ý kiến dư luận tiếp tục nóng lên
Trong nỗ lực chấm dứt tranh chấp, Thủ tướng Kan đã thay đổi lịch trình của mình và bay đến châu Âu ngày 3 tháng 10 để tham dự hội nghị ASEM với thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo. Cuối cùng, ông chỉ kịp có một cuộc gặp chớp nhoáng trong mười phút ở hành lang. Hai bên đã không có một cuộc đàm thoại chính thức nào.
Điều đáng ngạc nhiên là cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục sau khi thuyền trưởng Chiêm được thả. Trung Quốc yêu cầu Nhật Bản phải xin lỗi, một bước đi mà kể cả các học giả ủng hộ chính phủ xem là quá xa. Vào ngày 16 tháng 10, các cuộc biểu tình rầm rộ chống Nhật Bản đã diễn ra ở Thành Đô, Tây An và Trịnh Châu. Các cuộc biểu tình này do các nhóm trường đại học tổ chức và rõ ràng là được sự cho phép của các cấp chính quyền, mặc dù quy mô thực sự của cuộc biểu tình là lớn hơn có thể đã dự kiến và dự trù. Thái độ chống Nhật Bản tự phát bắt đầu dâng lên. Trong tuần tiếp theo, các cuộc biểu tình, một số không được sự cho phép, bắt đầu diễn ra ở các thành phố nhỏ hơn ở Tứ Xuyên và ở phía bắc Trung Quốc. Một số băng-rôn bắt đầu lên tiếng chống lại chính phủ, và chính phủ quyết định đàn áp các cuộc biểu tình này. Trong khi đó, các thành phần ưu tú trung lưu bắt đầu cho lưu hành một số lượng lớn thư điện tử hoặc viết các bài blog có kèm các hình ảnh về tội ác của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong lúc đó tại Nhật Bản, Maehara đã leo thang các lời lẽ chống Trung Quốc như một biện pháp để làm cho những người chỉ trích ông trong nước phải im lặng. Vào ngày 16 tháng 10, ông dùng từ “điên loạn” khi nói đến các phản ứng của Trung Quốc. Các cuộc biểu tình của các nhóm cánh hữu chống lại Trung Quốc đã diễn ra ở Tokyo, cũng như các hành động đe dọa khách du lịch Trung Quốc ở các khu vực khác ở Nhật Bản.
Một bước đi quan trọng khác là việc hủy bỏ vào phút chót cuộc gặp hòa giải đã được lên kế hoạch từ trước giữa Kan và Thủ tướng Ôn Gia Bảo vào ngày 30 tháng 10 bên lề hội nghị ASEAN ở Việt Nam. Trung Quốc chỉ trích Maehara vì đã nói dối về nội dung của cuộc họp trước đó giữa ông này và Bộ trường ngoại giao Trung Quốc và vì những nỗ lực của ông này trong việc vận động sự ủng hộ chống Trung Quốc trong khu vực. Ông này còn tiếp tục bị chỉ trích vì cuộc gặp với Hilary Clinton ở Hawaii vào ngày 28 tháng 10, trong đó Clinton đã nói rằng quần đảo Điếu Ngư là một phần trong khu vực an ninh của liên minh Mỹ - Nhật. Vào ngày 1 tháng 11, tờ Thời báo Toàn cầu do chính phủ Trung Quốc kiểm soát đã cho đăng một bài báo rất gay gắt về Maehara như thế này:
MAEHARA: NGOẠI TRƯỞNG HAY BỘ TRƯỞNG QUỐC PHÒNG?
Một cuộc gặp mặt thượng đỉnh giữa Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo và Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan đã bị hủy bỏ không lâu trước khi diễn ra vào thứ sáu tại Hà Nội. […]
Người phải chịu trách nhiệm là vị ngoại trưởng mới được bổ nhiệm, Seiji Maehara. Có lẽ nên gọi Maehara là bộ trưởng quốc phòng thì đúng hơn là ngoại trưởng. […] Rõ ràng, Kan đã chọn nhầm người để đại diện cho Nhật Bản trong các mối quan hệ quốc tế. Chính trị gia trẻ và đầy triển vọng của một thế hệ mới đã chứng tỏ rằng mình giống như một nhà chính trị cực đoan hơn là một nhà ngoại giao. […]
Các lời bình luận thuộc cánh hữu của Maehara đã làm giảm tính linh hoạt ngoại giao của Nhật Bản xuống còn không.
Hai tuần trước, Maehara đã làm cho Trung Quốc hết sức kinh ngạc khi miêu tả phản ứng của Trung Quốc đối với tranh chấp ở quần đảo Điếu Ngư là “điên loạn”. Từ ngữ của ông là những từ xúc phạm nhất mà một quan chức chính phủ Nhật Bản đã đưa ra trong một, hai thập kỷ trở lại đây. […]
Chính sách đối ngoại của Nhật Bản không có tỏ ra bất cứ dấu hiệu gì cho thấy Nhật Bản xem Trung Quốc như đối tác thương mại lớn nhất của mình, mà như một cỗ máy chiến tranh, sẵn sàng tấn công Nhật Bản bất kỳ lúc nào. Trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, chính phủ Nhật Bản không lãnh đạo người dân của mình cạnh tranh với Trung Quốc một cách công bằng, mà lại đi khuấy động sự e ngại đối với Trung Quốc và tập hợp lực lượng với các nước khác để kiềm chế Trung Quốc.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc là không thể tránh khỏi. Maehara biết rõ điều này hơn bất kỳ người dân Nhật Bản nào. Ông ta không nên cố đẩy đất nước mình đến việc đối đầu với xu hướng này, vì điều này là vượt quá sức chịu đựng của Nhật Bản.[6]
Giai đoạn 5 – Bước ngoặt Nga
Bước ngoặt cay đắng nhất của Nhật Bản là cuộc viếng thăm đầy bất ngờ của Tổng thống Medvedev đến bốn đảo Kurile vào ngày 1 tháng 11. Đây là những đảo nằm trong tranh chấp về lãnh thổ giữa Nhật Bản và Nga kể từ năm 1945 và cũng chính là các đảo đã làm cho hai bên không ký hiệp ước hòa bình. Chưa một nhà lãnh đạo Nga hay Xô Viết nào trước đây đã từng đến thăm quần đảo Kurile. Chuyến viếng thăm đã phá vỡ các vòng đàm phán đã được tiến hành trong nhiều năm liền giữa hai bên về việc trao trả các đảo này về cho Nhật Bản.
Điều khó chịu nhất là việc Medvedev lần đầu tiên tuyên bố ý định đến thăm quần đảo Kurile vào ngày 27 tháng 9, chỉ hai ngày trước cuộc gặp thượng đỉnh của ông tại Bắc Kinh với Trung Quốc. Nhiều ý kiến phỏng đoán cho rằng ý tưởng mở một mặt trận thứ hai đã được đưa ra bàn bạc ở Bắc Kinh trong một cuộc thảo luận thực dụng về lợi ích đôi bên.
Dư luận Trung Quốc tất nhiên phản ứng rất tích cực đối với sự kiện này. Thời báo Toàn cầu vào ngày 2 tháng 11 có một bài báo mạnh mẽ với câu sau:
Ông Liu Junhong, một nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Nhật Bản tại CICIR nói, “Nhật Bản không thể tránh khỏi các vụ căng thẳng với Trung Quốc và Nga trong cùng một thời điểm. Đã đến lúc các chính trị gia Nhật Bản cần phải xem xét lại chính sách ngoại giao của mình và tìm kiếm một giải pháp.”
Giai đoạn 6 – Trường thiên tiểu thuyết về đoạn băng bị rò rỉ về vụ đụng độ
Đúng khi mọi người nghĩ rằng cuộc khủng hoảng này không thể tồi tệ hơn được thì họ lại sai một lần nữa. Vụ va chạm tàu, cho đến nay vẫn luôn được giữ bí mật từ phía chính phủ Nhật Bản – đột nhiên bị rò rỉ trên Youtube vào ngày 4 tháng 11. Thủ phạm là một nhân viên của Lực lượng Tuần tra Bờ biển bất bình muốn cho cả thế giới biết “điều gì đã thực sự xay ra.” Việc rò rỉ đoạn phim này đã gây ra tác động rất lớn đến Nhật Bản. Nó thể hiện sự thiếu đoàn kết trong các cấp chính phủ Nhật Bản, và đồng thời, đã khắc họa được một cách sống động vụ va chạm giữa thuyền trưởng Chiêm và Lực lượng Tuần tra Bờ biển.
Nhưng đoạn phim này không cho thấy điều gì đã xảy ra dẫn đến cuộc va chạm. Nó cũng không thực sự thay đổi dư luận ở Trung Quốc. Ngược lại, đoạn băng này đã châm ngòi cho các cuộc tấn công khác chống lại chính phủ Kan và càng làm cho dư luận Nhật Bản mất niềm tin một cách sâu sắc hơn.
Giai đoạn 7 – Cuối cùng, khủng hoảng bớt căng thẳng ở APEC
Sau một cơ hội nữa bị lỡ ở hội nghị G20 vào ngày 11 và 12 tháng 11, cuộc khủng hoảng cuối cùng đã chấm dứt tại hội nghị thượng đỉnh APEC tại Yokohama. Một cuộc gặp chớp nhoáng kéo dài trong mười phút đã được tổ chức giữa Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Kan vào ngày 13 tháng 11. Vào ngày 19 tháng 11, việc vận chuyển kim loại hiếm từ Trung Quốc đến Nhật Bản được thông báo là đã được nối lại. Có vẻ như cuộc khủng hoảng đã bắt đầu bước vào giai đoạn hòa dịu. Tuy nhiên các mối quan hệ thì vẫn chưa được khôi phục hoàn toàn.
KHẢO SÁT VỀ CÁI GIÁ PHẢI TRẢ VÀ HẬU QUẢ
Những hậu quả của cuộc khủng hoảng này là gì? Rõ ràng, sự ủng hộ dành cho Thủ tướng Kan và chính phủ của ông đã bị đổ vỡ là một trong những hậu quả này. Đến ngày 7 tháng 11, sự ủng hộ dành cho nội các của ông Kan đã giảm mạnh từ tỉ lệ 71% giữa tháng 9 xuống chỉ còn 33%. Chưa một vị thủ tướng nào trước đây lại phải chứng kiến một sự sụt giảm về tỉ lệ ủng hộ mạnh đến như vậy. 74% người dân bày tỏ sự không đồng tình của họ do chính sách đối ngoại không đúng hướng và 49% cho rằng Trung Quốc và Nhật Bản sẽ có một mối quan hệ xa cách hơn trong tương lai.[7] Tình hình có thể sẽ chỉ ngày càng xấu đi, cuộc khủng hoảng đã làm cho Kan không thể tìm được đồng minh ở Thượng viện, nơi mà đảng của ông đang chiếm thiểu số. Điều này đã làm suy giảm đáng kể khả năng điều hành của ông. Khi mà sự sống sót của Kan đang rất cheo leo thì hai đối thủ cạnh tranh sát sườn nhất của ông, Okada và Maehara, cũng có thể phải trả giá, mặc dù chỉ có tương lai mới có thể trả lời cho chúng ta biết được điều này.
Một hậu quả thứ hai là sự tê liệt của nền ngoại giao Nhật Bản trong những tháng khủng hoảng. Tại hội nghị G20 tại Seoul, Nhật Bản dường như bị phân tán đến nỗi không thể giành lấy vai trò lãnh đạo trong bất kỳ vấn đề nào. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng dường như đã đẩy Nhật Bản gần hơn với Mỹ và kết quả là Nhật Bản bây giờ khó có khả năng hơn để giữ trung lập giữa Trung Quốc và Mỹ.
Thứ ba, các thay đổi về thể chế đã được thực hiện nhằm phản ứng với cuộc khủng hoảng có nghĩa rằng các mối quan hệ căng thẳng có thể sẽ duy trì như vậy trong thời gian trung hạn. Một sự thay đổi như thế là quyết định của Trung Quốc cho các tàu đánh cá thường trực trang bị vũ khí ra khu vực đảo Điếu Ngư về lâu dài để bảo vệ ngư dân của mình. Vào ngày 16 tháng 11 năm 2010, tàu ngư chính được trang bị vũ khí nhanh nhất và mới nhất của Trung Quốc, tàu China Yuzheng 310, đã thực hiện hành trình đầu tiên của mình từ Quảng Châu đến khu vực đảo Điếu Ngư.[8] Về phần mình, Nhật Bản tuyên bố vào ngày 21 rằng nước này sẽ tăng gấp đôi số lượng quân đội có mặt ở khu vực Okinawa từ 2000 quân lên 4000 quân, bao gồm việc đóng 100 quân ở hòn đảo xa nhất Ishigaki vào năm 2014.
Thứ tư, cuộc khủng hoảng đã hé lộ sức mạnh ngoại giao và kinh tế mới xuất hiện của Trung Quốc, và quan trọng hơn, là việc nước này đã sẵn sàng sử dụng sức mạnh này. Một hậu quả của điều này là vai trò quân sự của Mỹ trong các tranh chấp khu vực cũng gia tăng. Sự thay đổi chính sách này cũng đã ảnh hưởng đến Hàn Quốc (sau sự kiện Cheonan) và Việt Nam (liên quan đến sự đối đầu ở biển Đông). Một điều thú vị cần phải chỉ ra là lệnh cấm vận của Trung Quốc đối với việc xuất khẩu kim loại hiếm cho Nhật Bản đã phát triển thành một sự đối đầu rất nghiêm trọng tại Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
NHỮNG HẬU QUẢ KHÔNG LƯỜNG TRƯỚC ĐƯỢC VỀ CHÍNH TRỊ NỘI BỘ
Bài viết này lập luận rằng cuộc khủng hoảng Điếu Ngư năm 2010 là hệ quả điển hình của một chuỗi đáng thất vọng của những tín hiệu bị bỏ lỡ, những bước tính toán nhầm và của những hậu quả không dự tính trước. Cuộc khủng hoảng là kết quả của sự tương tác rất năng động giữa hai đấu trường chính trị nội bộ đầy mạnh mẽ.
Điều quan trọng phải lưu ý ngay từ đầu là những gì không phải là bản chất cuộc khủng hoảng này. Rõ ràng, cuộc khủng hoảng không phải là do sắp đặt trước. Hải quân Nhật Bản bảo vệ hoặc hướng sức mạnh về phía đông. Thuyền trưởng Chiêm là một ngư dân độc lập đang đi bắt cá. Cuộc khủng hoảng này phù hợp với lý thuyết về sự hỗn loạn hơn là lý thuyết về các sự tương tác vĩ mô mang tính chiến thuật. Có vẻ cũng sẽ hơi quá nếu như liên hệ cuộc khủng hoảng này với cuộc tranh luận đã diễn ra trong thời gian dài về chủ nghĩa quân phiệt đang trỗi dậy ở Nhật Bản[9] hoặc với cuộc tranh luận về sự trỗi dậy của nền quân sự Trung Quốc.[10]
Như chuỗi sự kiện đã cho thấy, Nhật Bản là nước đưa ra bước đi đầu tiên. Trước vụ va chạm, chính phủ đã chỉ thị cho Lực lượng Tuần tra Bờ biển phải tăng cường các hoạt động của mình ở khu vực Điếu Ngư. Nhật Bản sau đó quyết định bắt giữ thuyền trưởng Chiêm. Sau khi Chiêm được thả, Nhật Bản tiếp tục thực hiện các hành động khác chống lại Trung Quốc. Các động thái này không được phối hợp nhịp nhàng. Chúng rõ ràng liên quan đến ý chí chính trị của một người duy nhất, Seiji Maehara, người đã cố để gây dựng hình ảnh chủ nghĩa dân tộc trên con đường trở thành thủ tướng sau Kan. Maehara được xem là một người theo Mỹ, chống Trung Quốc. Cũng có thể những người thân cận của ông này đã thiếu kiến thức cụ thể về nền chính trị Trung Quốc, cũng giống như Maehara đã thiếu thông tin về những thỏa thuận bí mật trước đó do đảng LDP kí kết trước đảng DPJ. Một khi thuyền trưởng Chiêm bị bắt, việc thả ông ta một cách nhanh chóng phải trả một cái giá khá đắt, vừa làm suy yếu yêu sách về chủ quyền vừa như một sự mất mặt nghiêm trọng. Những hành động vào ngày 7 tháng 9 chỉ bao gồm một nhóm người nhỏ, nhưng khi cuộc chơi đã bắt đầu, nó đã làm khơi mào cho dư luận ở Nhật Bản.
Về phía Trung Quốc, rất dễ để hiểu nhầm động cơ của Trung Quốc như một nỗ lực để áp đặt sức mạnh đang lên của mình, tuy nhiên, việc quần đảo này được Nhật Bản sáp nhập năm 1895 sau hàng thế kỷ nằm trong vùng biển của Trung Quốc đã gắn chúng với cuộc chiến tranh Trung – Nhật, việc mất Đài Loan và chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản. Chính phủ Trung Quốc khá chậm chạp trong việc phản ứng với cuộc khủng hoảng này và có vẻ như đã bị tác động bởi dư luận không chỉ ở Trung Quốc mà còn cả ở Hồng Kông, Đài Loan và những người dân Trung Quốc khác ở nước ngoài. Vào giai đoạn mà sự tham gia của người dân vào sự điều hành của chính phủ ngày càng cao, chính phủ không thể phớt lờ được dân thường.
KIẾM TÌM CÁC NGUYÊN NHÂN SÂU XA
Có hai nhóm nguyên nhân sâu xa hơn đã làm cho cuộc khủng hoảng này leo thang. Thứ nhất, sự dịch chuyển về cân bằng về quyền lực giữa Trung Quốc và Nhật Bản trở nên dễ dàng nhận thấy hơn nhiều. Sự lớn mạnh của Trung Quốc ở châu Á và trên toàn thế giới đã được đẩy mạnh vào những năm 2000, đặc biệt là trong những năm từ 2005 đến 2010. Nền kinh tế Trung Quốc đã vượt qua nền kinh tế Nhật Bản về quy mô GDP tuyệt đối vào mùa hè năm 2010, sớm năm năm so với dự báo vào năm 2003 của Goldman Sachs. Mặc dù vậy, quy mô của sự lớn mạnh về tài chính, thương mại và kinh tế chỉ có thể dễ nhận ra  tại các thời điểm gay go. Trong cuộc khủng hoảng 2010, các công ty của Nhật Bản đã nhanh chóng nói rõ cho chính phủ Nhật Bản biết mức độ gắn bó của các công ty này với Trung Quốc và rằng họ không sẵn sàng phá vỡ mối quan hệ này chỉ vì mấy hòn đảo nhỏ xíu. Bởi vì Nhật Bản nhập khẩu 92% kim loại hiếm từ Trung Quốc, sự phụ thuộc lên đến 100% về chủng loại, [11] vấn đề trở nên hết sức dễ thấy.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng đã cho thấy các hạn chế trong chủ nghĩa khu vực đông Á. Đây vẫn là một quá trình diễn ra từ từ và không chính thức, thể hiện mạnh mẽ nhất giữa các quốc gia ASEAN và yếu nhất trong trường hợp Nhật Bản và Trung Quốc. Không giống như châu Âu, khi khủng hoảng nổ ra, không có một mạng lưới các chính trị gia hay thể chế khu vực để các nước có thể dựa vào. Về khía cạnh này, Nhật Bản sẽ là nước có lợi nhất khi thể chế hóa mối quan hệ với Trung Quốc càng sớm càng tốt.
KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng Điếu Ngư vào tháng 9 năm 2010 đã đánh vào mối quan hệ Trung – Nhật như một quả tên lửa. Một vấn đề bắt nguồn chỉ là một vụ va chạm giữa ngư dân và lực lượng tuần tra bờ biển đã trở thành sự đổ vỡ ngoại giao nghiêm trọng nhất trong nhiều năm qua. Những nhân vật chủ yếu chỉ quan tâm đến các vấn đề trong nước đã gây ra cuộc khủng hoảng. Các quan chức Nhật Bản bị kẹt giữa các cuộc bầu cử chính trị và bắt buộc phải giải quyết cuộc khủng hoảng trong lúc các vị trí nhân sự chủ chốt đang bị thay đổi. Mặt khác, phía Trung Quốc cố gắng duy trì sự ủng hộ của dư luận trước sự thay đổi về lãnh đạo dự kiến sẽ tiến hành vào năm 2012. Do đó, chính phủ Trung Quốc đã phải hành động trước sự giận dữ của dân chúng về một vấn đề được xem như một sự vi phạm các quy trình hoạt động ngầm của Nhật Bản.
Nhật Bản và Trung Quốc là hai nước hình thành nên xương sống cho sự ổn định khu vực Đông Á, nhưng mối quan hệ của hai nước này rõ ràng là quá yếu về mặt thể chế. Còn rất nhiều điều phải làm để nâng cao đối thoại song phương. Mối quan hệ về chính trị cần phải bắt kịp với sự hội nhập kinh tế đang ngày càng tăng.
Đối với quần đảo Điếu Ngư, bước đi trong tương lai có lẽ sẽ nằm trong các nỗ lực ôn hòa nhằm chia sẻ chủ quyền. Như Giáo sư ở Waseda Satoshi Amako (Amako 2010) đã đề xuất gần đây, cả hai bên cần tìm kiếm lợi ích chung hơn là một kết quả được ăn cả ngã về không. Nhật Bản sẽ có lợi nhất khi tiến hành cách tiếp cận theo hướng chia sẻ trên thực tế hơn là chỉ dựa vào pháp lí một cách thuần túy. Nếu không, Nhật Bản có thể sẽ lại gặp bế tắc và sẽ làm xấu thêm mối quan hệ với nước láng giềng hùng mạnh của mình.
PGS. Yves Tiberghien, Đại học British Columbia
Bản gốc tiếng Anh "The Diaoyu Crisis of 2010: Domestic Games and Diplomatic Conflict". Bài viết được in trong Seri đặc biệt của tạp chí Harvard Asia Quarterly với chủ đề “The Disputed Sea – Maritime Security in East Asia” tháng 12/2010


[1] “Shouwang diaoyudao de zhongguo yumin: zhe liang nian riben xiaozhang qilai [Chinese fishermen who protect Diaoyu Islands take a stand: Over Past Two Years, Japan Has Become Overbearing],” ifeng.com, ngày 1/10/2010, truy cập ngày 1/10/2010, http://news.ifeng.com/history/zhongguoxiandaishi/detail_2010_10/01/2688635_0.shtml
[2] “Nihon Senkaku Mitsuhyaku atta [Nhật Bản có một thoả thuận ngầm về quần đảo Senkaku]”, Aera, Asahi Shinbun Weekly, Ngày 25/10/2010.
[3] Chris Wang, “Taiwan Investigating Reported China-Japan Deal on Disputed Islands,” Focus Taiwan, ngày 19/10/2010.
[4] “Các điều kiện chin muồi cho một cuộc tranh chấp leo thang với Trung Quốc,” Asahi Shinbun. ngày 29/9/2010 [trích trong Peter Lee, “High Stakes Gamble as Japan, China, and the US Spar in the East and South China Seas,” The Asia-Pacific Journal 43-1-10, ngày 25/10/2010].
[5] Hu Feiyue, “Japan’s Actions Off Diaoyu Raises Concern,” China Daily, ngày 10/9/2010.
[6] Maehara, a Foreign or Defense Minister?,” Global Times, ngày 1/11/2010.
[7] “Public Support For Kan’s Cabinet Drops 14.9 Points to 32.7%.”, The Nikkei, ngày 7/11/2010.
[8] “Stronger Fleet for Fishery Administration,” China Daily, ngày 1711/2010.
[9] Hughes, Christopher W. Japan’s Remilitarisation. New York: Routledge International Institute for Strategic Studies, 2009; Samuels, Richard J. Securing Japan : Tokyo’s Grand Strategy and the Future of East Asia. Ithaca: Cornell University Press, 2007; Takao, Yasuo. Is Japan Really Remilitarising?: The Politics of Norm Formation and Change. Clayton, Vic.: Monash University Press, 2008.
[10] Gill, Bates. Rising Star: China’s New Security Diplomacy. Washington, D.C.: Brookings Institution Press, 2007; Kang, David C. China Rising: Peace, Power, and Order in East Asia. New York: Columbia University Press, 2007; Xiao, Xinhuang and Zhengyi Lin. 2009. Rise of China : Beijing’s Strategies and Implications for the Asia-Pacific. London ; New York: Routledge.
[11] “Ohata May Take Rare Earths Halt to WTO,” The Japan Times, September 25, 2010. Những số liệu này bắt nguồn từ dữ liệu tổng hợp bởi Tập đoàn Kinh loại, khí đốt và dầu khí Nhật Bản, một tổ chức thuộc chính phủ.
Bản quyền tiếng Việt thuộc NCBĐ