TCCS - Cách đây 65
năm, ngày 28-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm 15 bộ, trong đó có Bộ
Ngoại giao do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Bộ trưởng. Từ đó, ngày 28-8 trở
thành ngày truyền thống hằng năm của ngành ngoại giao. Trong 65 năm qua
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã khai sinh ra
nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, ngoại giao Việt Nam, đồng hành cùng
với dân tộc, trưởng thành và lớn mạnh không ngừng, góp phần vào công
cuộc đổi mới và chấn hưng đất nước.
Những bước đột phá lịch sử
Sau khi giải phóng miền
Nam và thống nhất Tổ quốc, do chủ quan, nóng vội, duy ý chí và sự yếu
kém của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp (vốn có tác dụng
trong thời chiến), đất nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm
trọng. Sản xuất đình đốn, lạm phát phi mã (774,7% năm 1986). Đời sống
nhân dân hết sức khó khăn, trong khi đất nước rơi vào tình thế bị bao
vây, cấm vận nặng nề.
Trên cơ sở phân tích một
cách khoa học tình hình thế giới với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, Đại
hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã phân tích một cách khách quan những
sai lầm, khuyết điểm và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng và đi đến quyết
định lịch sử là tiến hành đổi mới đất nước một cách toàn diện, trước
hết là đổi mới về kinh tế.
Về đối ngoại, Đại hội VI
nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là "... tranh thủ điều kiện quốc tế thuận
lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc"... và "
cần hòa bình để phát triển kinh tế". Nghị quyết của Đại hội VI và các
nghị quyết của Trung ương đã chuyển hướng chính sách ngoại giao, chủ
trương đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới,
không phân biệt chế độ chính trị- xã hội khác nhau, thi hành chính sách
hữu nghị, hợp tác, tồn tại hòa bình để phát triển, phù hợp với lợi ích
của nhân dân ta và xu thế phát triển chung của thế giới.
Thực hiện chính sách đối
ngoại rộng mở theo đường lối đổi mới của Đảng, nhiệm vụ hàng đầu của
ngoại giao lúc này là phải phá cho được "tảng băng" bao vây, cấm vận.
Muốn vậy, cần tìm một giải pháp cho “vấn đề Cam-pu-chia” mà các bên có
thể chấp nhận được. Sau 30 năm chiến tranh, lợi ích tối cao của ta là
tạo lập một môi trường hòa bình và ổn định, trước hết là với các nước
láng giềng để tập trung phát triển kinh tế và hàn gắn các vết thương
chiến tranh. Do đó, việc bình thường hóa quan hệ với các nước láng
giềng, trước hết là với Trung Quốc, là một yêu cầu chiến lược cấp thiết.
Trên tinh thần đó, ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã chính thức tuyên bố:
Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào
và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Trải qua nhiều vòng đàm
phán, với sự cố gắng của hai bên, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã chính
thức được bình thường hóa vào năm 1991 trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng tồn
tại hòa bình. Quan hệ giữa hai Đảng cũng đã được phục hồi trên nguyên
tắc tôn trọng độc lập, tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau
và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Trong quan hệ với các
nước ASEAN, qua các cuộc đối thoại và tiếp xúc song phương và đa phương
với ta, các nước ASEAN nhận thấy giữa ta và họ có những lợi ích chung
trong việc xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, hữu nghị và hợp
tác. Tất cả các yếu tố trên đã thúc đẩy các nước ASEAN thấy cần đẩy mạnh
hơn quá trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và tách dần khỏi
chính sách của một số nước lớn tiếp tục bao vây cấm vận ta. Các chuyến
thăm của các nhà lãnh đạo các nước ASEAN tới Việt Nam và các chuyến thăm
chính thức của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt (năm 1991, 1992)
và của Tổng Bí thư Đỗ Mười (năm 1993) tới Thái Lan, Xin-ga-po đã làm
cho các bên hiểu biết lẫn nhau hơn. Quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN
được xem như đã hoàn toàn trở lại bình thường đồng thời với việc ký kết
Hiệp định Pa-ri về Cam-pu-chia.
Thực hiện đổi mới trong
chính sách đối ngoại, ta luôn luôn coi trọng việc bình thường hóa quan
hệ với Hoa Kỳ. Đại hội VI của Đảng đã khẳng định: "Chính phủ ta tiếp tục
bàn bạc với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và
sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hòa bình, ổn định ở
Đông Nam Á". Các nghị quyết của Bộ Chính trị cũng khẳng định: Cần có
chính sách toàn diện đối với Mỹ nhằm tranh thủ dư luận nhân dân Mỹ và
thế giới tạo thuận lợi cho chiến lược của ta tập trung vào việc giữ vững
hòa bình và phát triển kinh tế. Chúng ta đã giải quyết vấn đề POW/MIA
(tù binh và người Mỹ mất tích) và một số vấn đề nhân đạo khác theo đúng
lộ trình. Mỹ cũng bắt đầu nới lỏng một số hạn chế trong chính sách cấm
vận đối với ta.
Nhìn lại chặng đường đầu
tiên của công cuộc đổi mới do Đảng ta phát động bắt đầu từ Đại hội VI có
thể thấy đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn. Chỉ trong vòng chưa đầy 4
năm thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở theo tư duy mới, đất nước ta
đã thoát khỏi khủng hoảng và sự bao vây cấm vận của các lực lượng thù
địch, giải tỏa những bế tắc trong quan hệ với các nước láng giềng (ngoài
Đông Dương) và hầu hết với các nước lớn, các tổ chức khu vực và liên
khu vực. Quan hệ giữa nước ta với các nước ASEAN được khai thông, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc Việt Nam gia nhập ASEAN và hội nhập khu vực
sau đó. Đặc biệt quan trọng là việc bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc và từng bước cải thiện quan hệ với Mỹ tiến đến việc bình thường hóa
và thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Đây là bước đột phá cực
kỳ quan trọng về mặt ngoại giao, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho
công cuộc đổi mới về mặt kinh tế nhằm thực hiện những nhiệm vụ chiến
lược của nhân dân ta sau 30 năm chiến tranh là xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tiếp tục đổi mới về tư duy đối ngoại
Trong thập niên 90 của
thế kỷ XX đã diễn ra những biến động to lớn do sự tan rã của Liên Xô, sự
sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và cuộc khủng hoảng của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Những biến động này diễn ra
vào lúc ta chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế và các lực lượng thù
địch lợi dụng sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã tăng
cường chiến tranh tâm lý chống Việt Nam. Tình hình phức tạp mới trên thế
giới không những đòi hỏi ngoại giao Việt Nam phải thật tỉnh táo theo
phương châm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy là "Dĩ bất biến ứng vạn biến"
mà cần tiếp tục đổi mới tư duy đối ngoại, nhất là trong cách tiếp cận
với các đối tượng khác nhau trong quan hệ quốc tế. Trên tinh thần đó,
trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội" và "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000" tiếp
tục khẳng định mục tiêu chiến lược nhất quán là "tiếp tục sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội"; đồng thời trong chính sách đối ngoại đã có thêm một bước đổi mới
theo hướng cởi mở hơn là "tiếp tục đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần
Việt Nam muốn là bạn của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển" (thay cho chính sách "thêm bạn bớt thù"
trước đây). Thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, ngoại giao Việt Nam
đã tỏ ra năng động và sáng tạo hơn, đẩy mạnh các hoạt động nhằm góp phần
vào việc phá vỡ thế bao vây cô lập, tranh thủ thiết lập quan hệ với tất
cả các nước, trước hết là các nước lớn, mở rộng quan hệ đối với tất cả
các khu vực trên thế giới, các tổ chức quốc tế nhằm tạo điều kiện cho
bước đầu hội nhập.
Trong chương trình nghị
sự dày đặc đó, tất nhiên cần phải có sự ưu tiên, trong đó bình thường
hóa quan hệ với Mỹ và đàm phán để gia nhập ASEAN là hai ưu tiên hàng đầu
vì sẽ có tác dụng thúc đẩy việc mở rộng quan hệ với các nước cũng như
các tổ chức quốc tế khác. Mặt khác, Mỹ và ASEAN cũng có lợi ích trong
việc xích lại gần Việt Nam. Với Mỹ là tái lập một thế cân bằng giữa các
nước lớn ở Đông Nam Á và tạo điều kiện cho các công ty Mỹ vào Việt Nam
để kinh doanh sau này. Với ASEAN là tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thực hiện giấc mơ của các nhà sáng lập tổ chức này là xây dựng ASEAN
thành một tổ chức khu vực mạnh bao gồm tất cả các nước Đông Nam Á. Việc
Việt Nam tích cực góp phần giải quyết vấn đề Cam-pu-chia và giúp Mỹ giải
quyết vấn đề POW/MIA đã tạo điều kiện thuận lợi cho ta trong các cuộc
đàm phán với Mỹ nhằm bình thường hóa. Kết quả là ngày 3-2-1994 Mỹ tuyên
bố bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam và ngày 11-7-1995 Tổng thống
B.Clin-tơn tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận, chính thức đặt dấu
mốc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Việc bình thường hóa quan
hệ với Mỹ đã giúp ta khai thông quan hệ với Liên minh châu Âu (EU),
Nhật Bản, Hàn Quốc, gia nhập Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC) và các tổ chức quốc tế khác. Quan hệ giữa ta với các nước
bạn bè cũ ở Đông Âu được xác định lại trên cơ sở mới.
Sau khi Hiệp định Pa-ri
về Cam-pu-chia được ký kết, "nút thắt" đầu tiên trong quan hệ của ta với
các nước đã được tháo gỡ, quá trình đàm phán giữa ta và các nước ASEAN
về việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã được đẩy nhanh. Ngày 28-7-1995, chúng
ta đã gia nhập ASEAN và trở thành thành viên chính thức thứ bảy của tổ
chức này. Sau khi gia nhập ASEAN, ta đã nhanh chóng tham gia Hiệp định
Thương mại tự do ASEAN (AFTA) thực hiện giảm thuế từ ngày 1-1-1996 đến
1-1-2006 và sau khi gia nhập ASEAN 3 năm ta đã tổ chức thành công Hội
nghị cấp cao ASEAN VI (tháng 12-1998). Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Hà
Nội và Chương trình Hành động Hà Nội đã tạo dấu ấn đầu tiên của Việt
Nam trong tổ chức khu vực này.
Năm 1995 với 3 sự kiện
quan trọng cùng diễn ra trong tháng 7 là ký Hiệp định khung với EU;
thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ và chính thức trở thành thành
viên của ASEAN, đã trở thành năm đáng ghi nhớ nhất của ngoại giao Việt
Nam thời kỳ đổi mới, tạo ra một hình ảnh mới về Việt Nam trên trường
quốc tế.
Như vậy, nhờ sự điều
chỉnh đúng đắn đường lối đối ngoại, trên cơ sở nhận thức sâu sắc những
biến chuyển của thời cuộc, chúng ta đã đạt được thành tựu bước đầu quan
trọng là phá bỏ sự bao vây cấm vận, gỡ bỏ những trở ngại trong quan hệ
quốc tế và khu vực, khơi thông dòng chảy hội nhập, bước vào trường quốc
tế với một tư cách, vị thế và hình ảnh mới, tạo đà cho bước phát triển
tiếp theo của ngoại giao Việt Nam trong 25 năm đổi mới.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của ngoại giao hiện đại
Tính đến
năm 2010, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 179 nước trên thế giới.
Lần đầu tiên trong lịch sử, ta có quan hệ bình thường và đầy đủ với tất
cả các nước lớn G-8, trong đó nhiều nước đã trở thành đối tác chiến lược
của ta. Đồng thời, ta trở thành thành viên tích cực của Liên hợp quốc,
Phong trào Không liên kết, ASEAN, APEC, Cộng đồng Pháp ngữv.v.. Mặt
khác, cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài cũng tăng lên (91 cơ quan)
với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường trực bên
cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn hóa.
|
Đồng thời với việc chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại giao kinh tế, trong đó
ngành ngoại giao làm công tác tham mưu, thông tin kinh tế và là cầu nối
giữa các cơ quan làm kinh tế trong nước với cơ quan kinh tế - tài chính
nước ngoài, giữa các doanh nghiệp của Việt Nam với các xí nghiệp nước
ngoài được đẩy mạnh. Các chuyến thăm nước ngoài của lãnh đạo Đảng và Nhà
nước ta với nội dung kinh tế phong phú đã tạo những bước đột phá lớn
trong việc thiết lập khuôn khổ hợp tác kinh tế, đưa quan hệ giữa nước ta
với các đối tác lên tầm cao mới; đồng thời làm cho thế giới có những
đánh giá tích cực về triển vọng phát triển của kinh tế Việt Nam.
Đến nay,
Việt Nam đã có quan hệ thương mại, đầu tư với khoảng 230 nước và vùng
lãnh thổ, đưa tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu so với GDP lên trên 170%.
Điều đó cho thấy nền kinh tế của nước ta đã gắn kết chặt chẽ vào nền
kinh tế thế giới và chủ trương của ta "chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế thế giới" và bước đi ban đầu là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp.
|
*
* *
Qua 25 năm thực hiện đổi
mới trên mặt trận đối ngoại, ngoại giao phối hợp với các cơ quan liên
quan khác đã đạt được những thành tựu to lớn, ghi đậm dấu ấn của trường
phái ngoại giao Hồ Chí Minh trên thế giới.
Một là, hình
ảnh và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế đã được cải thiện. Việt Nam
không những là đất nước hòa bình hữu nghị mà còn là một nước đã ra khỏi
đói nghèo và đang trên con đường phát triển đầy ấn tượng, đồng thời là
một thành viên có trách nhiệm và được sự tín nhiệm của cộng đồng quốc
tế. Chúng ta đã hoàn thành xuất sắc trọng trách ủy viên không thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và đang hoàn
thành tốt vai trò Chủ tịch ASEAN 2010.
Hai là, đã
làm công tác ngoại giao kinh tế, là thành viên của ủy ban quốc gia về
hợp tác kinh tế quốc tế, ngoại giao đã chủ động và tích cực tham gia
công tác tham mưu về chính sách kinh tế đối ngoại, nhất là kinh nghiệm
của các nước về chính sách thị trường, chính sách đối tác và kinh nghiệm
về hội nhập quốc tế, và luật chơi quốc tế. Đã tranh thủ được một số
nước và các tổ chức quốc tế giúp ta công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
làm công tác kinh tế đối ngoại v.v..
Ba là, ngoại
giao đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an ninh biên giới lãnh thổ.
Các hiệp định biên giới trên đất liền với Trung Quốc cũng như với Lào
và Cam-pu-chia đã tạo cơ sở cho việc xây dựng một khu vực biên giới hòa
bình và phát triển với các nước láng giềng.
Bốn là, thế
giới đã đánh giá cao những cố gắng của Việt Nam trong việc thúc đẩy và
bảo về quyền con người ở Việt Nam. Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc
đã chính thức thông qua Báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện quyền
con người ở Việt Nam và hoan nghênh các cố gắng của Việt Nam trong việc
trao đổi, đối thoại cởi mở với nhiều nước về vấn đề này. Với chính sách
"người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của dân tộc
Việt Nam" và với tinh thần hòa hợp dân tộc, Nhà nước ta đã tạo điều kiện
thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng hướng về Tổ quốc.
Hiện nay có khoảng 3,5 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Lượng
kiều hối gửi về nước hằng năm lên đến 5 - 7 tỉ USD.
Về biên giới trên biển,
ta đã hoàn thành và chuyển cho Liên hợp quốc Báo cáo xác định ranh giới
ngoài thềm lục địa vượt qua 200 hải lý. Ngoài ra, ta tiếp tục thảo luận
với các nước ASEAN cũng như với các quốc gia đối tác để sớm thông qua Bộ
Quy tắc ứng xử (COC) ở Biển Đông có tính chất ràng buộc thay cho Tuyên
bố về cách ứng xử (DOC) hiện nay. Những cố gắng trên đã và sẽ góp phần
quan trọng vào việc bảo về chủ quyền và lợi ích quốc gia, cũng như củng
cố môi trường hòa bình trong khu vực.
Trong chặng đường 65 năm
qua, nhất là trong gần 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, cùng với sự
phát triển của đất nước, những thành tựu đó của ngoại giao Việt Nam đã
góp phần cải thiện và nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới, tạo
môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước./.